Hình thức Ngựa_kéo

Xe ngựa

Chiến xa là một loại xe do động vật kéo (chủ yếu là ngựa nên có thể gọi là xe ngựa), sơ khai và đơn giản nhất, được sử dụng cả trong chiến tranh cũng như thời bình như là phương tiện quan trọng bậc nhất của nhiều dân tộc cổ đại. Chiến xa được tạo ra ở khu vực Lưỡng Hà bởi các cư dân ở đây ngay từ khoảng năm 3000 TCN và tại Trung Quốc trong khoảng thiên niên kỷ thứ 2 TCN. Chiến xa nguyên bản là một cỗ xe 2 hoặc 4 bánh được kéo bởi 2 hay nhiều con ngựa buộc sát cạnh nhau. Cỗ xe kéo nhỏ với một khung chắn bảo vệ cao đến thắt lưng ở phía trước. Chiến xa, điều khiển bởi một người đánh xe, được sử dụng cho chiến tranh thời cổ đại trong suốt thời đại đồ đồng và thời đại đồ sắt.

Cỗ xe này tiếp tục được dùng trong di chuyển, diễu hành và trong các cuộc thi đấu, các cuộc đua sau khi nó không còn được dùng với mục đích quân sự. Những chiến xa có bánh xe nan hoa sớm nhất đã tồn tại từ năm 2000 TCN và cách sử dụng chúng đạt đến đỉnh cao vào khoảng năm 1300 TCN (điển hình là trong trận Kadesh). Chiến xa mất ý nghĩa quan trọng trong quân đội vào thế kỷ thứ 4 TCN nhưng những cuộc đua xe ngựa vẫn tiếp tục phổ biến ở Constantinopplis cho đến tận thế kỷ thứ 6. Chiến xa trở thành lỗi thời trong thời kỳ Chiến Quốc, lý do chính là sự phát minh ra nỏ và sự ra đời của kỵ binh bắn tên, những thứ có hiệu quả hơn.

Kéo xe

Ngựa ở miền Nam
Ngựa ta ở miền Nam thường dùng để kéo xe thổ mộ
Ngựa ta kéo xe ở Bến Tre

Trong thế kỷ 19 và nửa đầu những thập niên của thế kỷ 20, những chiếc xe ngựa cũng trở nên rất gần gũi, thân thuộc với người dân Việt Nam bởi nó là phương tiên đi lại chủ yếu thời kỳ đó. Đặc biệt ở phương Nam, hình ảnh những chiếc xe ngựa đi trên những lối mòn xưa, giữa cánh đồng hoa cúc vàng mênh mông nở rộ đã trở thành nét đẹp rất đặc trưng của mảnh đất miền Tây. Con ngựa kéo theo một cỗ xe bình dân, kèm âm điệu tiếng lục lạc inh ỏi, phương tiện vận tải đắc dụng cho người và sản vật quê nhà, xe do ngựa kéo là từ Nhật du nhập vào Việt Nam từ năm 1886, từ 1918, Nam Bộ còn có xe kiếng, kiểu xe Ấn Độ, xung quanh gióng mặt kính, ngựa hoặc lừa kéo đi[4].

Trong vùng đồng bằng dùng xe một ngựa kéo, gọi thẳng là xe ngựa chứ không gọi là xe thổ mộ. Hai bên mắt ngựa kéo xe có 2 lá vả che cho nó không nhìn thấy hai bên. Không có xe song mã, tứ mã, nhưng trèo lên xe ngựa cũng phải là hạng có tiền. Ở Phú Yên, ngựa kéo xe trung bình mỗi ngày chạy hai chuyến khứ hồi trên lộ trình chừng 15 cây số, như Phú Lâm–Bàn Thạch, Phú Lâm–Phú Thứ, Tuy Hòa–Hòa Đa, La Hai–Chí Thạnh. Một số nơi tại Tuy Hòa, Tuy An có địa danh Bến Xe Ngựa. Xe ngựa Phú Yên trở thành một phương tiện chuyên chở rất phổ biến một thời. Nổi tiếng nhất là khu vực Phú Lâm (thuộc các phường Phú Thạnh, Phú Đông, Phú Lâm của Tuy Hòa ngày nay) với số người tham gia nghề này đông đảo nhất tỉnh.

Ở các địa phương trong tỉnh đều hình thành các bến xe ngựa, trong đó có hai bến lớn nhất là bến xe Phú Lâm và bến xe nội tỉnh. Đến tận nửa sau thế kỷ XX, trừ những cuộc đua, ít thấy người ngồi trên lưng ngựa, song vẫn còn phổ biến loại hình khác, con ngựa kéo theo một cỗ xe bình dân, kèm âm điệu tiếng lục lạc inh ỏi, phương tiện vận tải đắc dụng cho người và sản vật quê nhà. Có làng rượu ở phía Nam, lại có chợ Rượu ở phía Đông, một thời ngựa xe tấp nập, đến nay con ngựa và cỗ xe ngựa Bình Định hầu như vắng bóng trên các làng quê và phố thị[5][6].

Ngày nay, ở Phú Yên, cả tỉnh có khoảng vài chục xe còn lăn bánh, rải rác ở các huyện Tây Hòa, Đông Hòa, Phú Hòa và Tuy Hòa. Còn các địa phương khác như Tuy An, Đồng Xuân thì người dân chủ yếu nuôi ngựa để thồ hàng. Nghề chạy xe ngựa đã quá lỗi thời trước sự phát triển của các phương tiện vận tải hiện đại, những người đồng nghiệp ở xóm Ngựa và cả huyện Tây Hòa đều lần lượt giải nghệ, tìm việc khác sinh nhai, ở huyện Phú Hòa thì những người chạy xe ngựa chỉ dựa vào các nhà máy xay xát để vận chuyển lúa, gạo cho nông dân[7].

Loại hình ngựa kéo cũng thông dụng tại Quảng Ngãi[8] với âm thanh lốc cốc của tiếng vó ngựa một thời gắn bó với những chuyến xe ngựa trên các ngã đường ở thị xã Quảng Ngãi xưa, tại đây, phương tiện giao thông xe ngựa được tận dụng, từ đó, hình thành các bến xe ngựa ở thị xã Quảng Ngãi, Sông Vệ, Thạch Trụ, về sau, phương tiện giao thông đa dạng hơn nên xe ngựa chỉ dùng chủ yếu ở thị xã Quảng Ngãi và vùng ven đô[8].

Không phải ngẫu nhiên mà phương tiện sàn thô bánh xe lớn/ bạn hàng ngồi chêm nhau cùng với cái nhịp ngựa đều đều, có phần chậm chạp ấy lại dễ dàng đi vào thơ ca rất sống động và có sức khơi gợi, ám ảnh lâu dài. Dặm trường vó ngựa đã ghi lại bao biến cố, đổi thay của thị xã Quảng Ngãi ngày xưa. Từ Quảng Ngãi vào các tỉnh Tây Nguyên, thi thoảng, ta bắt gặp những chiếc xe ngựa ở Tuy Hòa (Phú Yên), Phan Rang (Ninh Thuận), Phan Rí (Bình Thuận), Đức Trọng (Lâm Đồng) vẫn khoan thai gõ nhịp trên đường giữa dòng xe cộ ngược xuôi, xe ngựa từng là hình ảnh đẹp của thị xã Quảng Ngãi xưa.

Thường thì xe ngựa ít khi nào phi nước đại một mạch từ làng lên phố mà phải dừng lại bỏ hàng trên đường đi. Tiếng lục lạc và tiếng vó ngựa cứ đổ đều đều. Đi xe ngựa tiện cái là có thể bỏ thêm đôi quang gánh (đôi trạc) hay cái thúng, cái mủng trên đó để lên chợ mua đồ ăn, trầu cau. Xe ngựa không được tươm tất như những chiếc xe ngựa xinh đẹp. Xe ngựa ở Quảng Ngãi dịp Tết hiện đại, hoành tráng, xinh đẹp hơn nên không giống chiếc xe thổ mộ ngày xưa. Ở Tây Ninh bây giờ, phải chờ đến dịp Hội xuân Núi Bà Đen diễn ra trong tháng Giêng. Chỉ ở đấy mới có những cỗ xe ngựa chở người từ cổng khu du lịch vào tới khu cáp treo, hay chùa Trung, vào mùa cưới sẽ gặp cỡ một chục cỗ xe ngựa chạy trên các phố hướng về phía Toà thánh Tây Ninh[9]

Một con ngựa cỏ Đà Lạt được phục vụ cho việc kéo xeNgựa Đà Lạt kéo xe ở chợ HoaNgựa kéo xe tại Dinh Bảo Đại để chụp ảnh

Xe ngựa ở Đà Lạt xuất hiện từ thời rất xa xưa, thời đó, sáng, chiều lại có những đoàn xe ngựa thồ nối đuôi nhau chở đầy rau xanh, hoa quả, nông phẩm từ ngoại ô về thành phố[10]. Ngày nay xe ngựa chỉ dùng để chở du khách. Tiếng vó ngựa lốc cốc trên những con dốc gập ghềnh nơi thành phố cao nguyên này từ hàng trăm năm nay đã trở nên một hình ảnh quen thuộc trong tiềm thức của nhiều người. Những chiếc xe ngựa gắn bó với người Đà Lạt trở thành một phương tiện lao động và cũng là nét đặc trưng của miền đất này.

Trên xứ Đà thành tĩnh lặng, xa xăm, tiếng vó ngựa vẫn gõ giòn trên dốc vắng và cả tiếng lục lạc xao động miền ký ức, là nét văn hóa, hình ảnh tâm thức với cái thú, khi mỗi buổi chiều ngồi vắt vẻo bên thành xe ngựa, nhìn ngắm ruộng đồng xanh mướt, tiếng vó ngựa gõ nhịp, tiếng lục lạc len trong gió, từ khi có chương trình xây dựng nông thôn mới, hầu hết đường làng, đường nhánh ra đồng đã được trải bê-tông. Tiếng vó ngựa gõ giòn thêm. Tiếng vó ngựa lốc cốc trên đường phố, Đà Lạt nửa đêm lục lạc ngựa về là những thanh quen thuộc. Chiếc xe ngựa đã gắn bó với người Đà Lạt và trở thành nét độc đáo không thể thiếu trong lòng du khách, không thể thiếu nhịp phách vó ngựa gập ghềnh.

Trước thời vua Bảo Đại, vó ngựa Đà Lạt đã gõ nhịp trên những con đường dốc hoang sơ chạy quanh thành phố. Thời đó, người ta gọi là xe thổ mộ, có hai băng ghế dọc, bánh gỗ và bạc đồng. Sau đó một thời gian, hàng loạt xe ngựa xuất hiện trên thành phố. Ngựa chở hàng từ nhà vườn tỏa đi các chợ, đưa học sinh đến trường, ngựa giúp du khách qua những chốn đẹp. Không giống các phương tiện khác, xe ngựa dung hòa con người trong một không gian mở, không gian của cộng đồng. Đến những năm 30, cung đường La-mác-tin vòng quanh hồ Xuân Hương có một đường chính, hai đường phụ dành cho người cưỡi ngựa và đi xe đạp, vó ngựa đã gắn với Đà Lạt từ thuở đó[11].

Ngày xưa xe ngựa nhiều, một xe nuôi cả nhà. Giờ chỉ còn khoảng 30 chiếc của những người vẫn giữ nghề, giữ lại làm du lịch, rước dâu, đóng phim. Cung đường đi cũng đã ngắn dần, không còn rong ruổi cùng du khách như xưa nữa. Thời huy hoàng của nghề xe ngựa là vào thập niên 90 thế kỷ trước, ở đây có trên dưới 500 xe. Thời hoàng kim, vào những năm 70 của thế kỷ trước, Đà Lạt được xem là vương quốc của xe ngựa với khoảng 500 chiếc. Lúc ấy, các bác xà ích làm ăn rất thịnh vượng, đi cả ngày, ngựa chạy đến chồn cả chân mà làm vẫn không hết việc. Ngựa nuôi cả gia đình, một ngày làm xe ngựa bằng sáu công làm hợp tác xã, cũng giống những xà ích ở Đà Lạt, kinh tế của các gia đình này chủ yếu nhờ vào sức ngựa.

Sau ngày 30/4, xe ngựa bắt đầu đi vào làm ăn hợp tác, ban đầu cũng rất khá nhưng về sau thì dần dần sa sút cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều những phương tiện giao thông hiện đại, nhưng khi kinh tế phát triển, nhiều phương tiện hiện đại đã lấn át những chiếc xe thổ mộ, nhiều người đành phải bán xe, bán ngựa chuyển sang nghề khác. Theo sự phát triển của xã hội, chức năng của ngựa đã bị thu hẹp và số lượng ngựa trên cao nguyên Lâm Viên cũng giảm đi nhiều[11]. Ở xứ rau Đơn Dương, chuyện những chiếc thổ mộ từng một thời dọc ngang, ở Lâm Đồng, chẳng đâu nhiều ngựa thồ rau như xứ Đơn Dương. Xứ rau Đơn Dương nhờ ngựa mà khâu lưu thông được thông suốt. Nhưng rồi, ngựa dần dần cũng phải mất đi[12]

Năm 1986, có cá nhân đứng ra thành lập HTX xe ngựa với 250 chiếc, chia làm 4 đội và hoạt động rất sôi nổi. Năm 1999, Thành phố chủ trương cấm xe thô sơ và súc vật vào trung tâm Đà Lạt và hồ Xuân Hương. Ngựa mất bến đậu, mất cả lối đi, cái nghề xe ngựa cũng từ đó lụi dần. Năm 1995, chỉ còn 40 người là quyết tâm sống chết với cái nghề được xem đã đến lúc hết thời này. Cho đến nay, toàn thành phố chỉ còn chưa đầy 10 chiếc xe ngựa, tất cả đều chỉ phục vụ chở khách du lịch[13]. Giờ chỉ còn khoảng 50 xe. Số còn lại cho ngựa thay vì kéo hàng hóa như xưa thì nay phục vụ du khách. Nhưng chỉ ở những tuyến đường có mật độ giao thông không lớn, độ dốc không cao; tại những khu vực sinh thái, dã ngoại, các khu vực ngoại vi thành phố để du khách có dịp thăm thú, ngắm cảnh như quanh bờ hồ Xuân Hương, đường đến Suối Vàng và trong khuôn viên các khu du lịch nổi tiếng

Thực tế hiện nay xe ngựa chủ yếu phục vụ du khách, nên chỉ có thể hoạt động khi mùa du lịch đến. Đà Lạt nếu vắng bóng loại hình du lịch ngựa và xe ngựa thì sẽ kém thú vị và không còn nét đặc trưng của du lịch Đà Lạt. Nhưng để tăng thêm sự hấp dẫn cần nghĩ đến việc nhập thêm những giống ngựa tốt, có tầm vóc vạm vỡ, oai phong, song song đó cần nâng cấp các cỗ xe thêm tiện nghi, hiện đại và an toàn. Để có một cỗ xe ngựa 2 bánh coi được cũng phải bỏ ra gần chục triệu (chưa kể ngựa) có cả 20 cỗ xe ngựa 4 bánh theo kiểu dáng châu Âu thế kỷ 19 vào hoạt động du lịch.

Những chiếc xe ngựa lại được xuất hiện ở phố núi Đà Lạt sau hơn 5 năm bị phong tỏa, để được chạy xe trở lại phải chạy vạy mới có 13 triệu đồng mua một con ngựa, rồi chạy tiếp 10 triệu nữa đóng một chiếc xe thổ mộ bốn bánh. Đà Lạt đồi dốc, xưa nay xe ngựa một cầu (chỉ cần hai bánh) đã làm khổ thân con ngựa, nay chơi hai cầu (xe bốn bánh), ngựa phải ráng mà lê, cố mà kéo, chiều dài quá khổ của xe bốn bánh làm mỗi lần lên hay xuống dốc là xà ích phập phồng vì ngựa không phải động cơ. Nó mà mệt là tuột dốc, rất nguy hiểm. Xe tự sắm, ngựa tự mua, tự đón khách, tự đánh xe chở khách, cỏ ngựa hằng ngày tự cắt, ngựa ngã bệnh tự chăm, ngựa khóc (vì mệt)[14]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Ngựa_kéo http://www.dcboa.com http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/cai-dau-dai-x... http://baoquangngai.vn/channel/6108/201402/duong-x... http://baotayninh.vn/ngua-tho-trong-den-mieu-a4119... http://bongdaplus.vn/tin-tuc/the-gioi/hinh-tuong-n... http://www.baobinhdinh.com.vn/viewer.aspx?macm=26&... http://cand.com.vn/doi-song/dau-xua-xe-ngua-350614... http://dulich.dantri.com.vn/du-lich/loc-coc-vo-ngu... http://laodong.com.vn/phong-su/langbian-doi-ngua-d... http://danviet.vn/tin-tuc/vo-ngua-noi-cao-nguyen-1...